Nhóm nghiên cứu do PGS.TS Phạm
Văn Hùng (ĐH Quốc tế - ĐHQGTPHCM) đứng đầu đã nghiên cứu thành công đề tài
Nghiên cứu cơ chế hình thành dạng tinh bột không bị thủy phân ứng dụng trong
phòng chống các bệnh tiểu đường và béo phì.
Mục tiêu chính là nghiên cứu cấu
trúc và tính chất của các loại tinh bột phổ biến ở Việt Nam có hàm lượng
amylose khác nhau để tìm ra loại tinh bột phù hợp. Nghiên cứu các phương pháp
biến tính để thay đổi khả năng chống thủy phân bởi enzym amylase của tinh bột
bao gồm biến tính bằng phương pháp enzyme, biến tính hóa học và biến tính thủy-nhiệt,
cơ chế kháng sự thủy phân bởi enzyme amylase và các tính chất lý-hóa của tinh bột
biến tính, và các chỉ số GI (Glycaemic Index) của các tinh bột biến tính có hàm
lượng tinh bột không thủy phân cao trên chuột nhằm ứng dụng trong sản xuất các
sản phẩm thực phẩm chức năng có tác dụng phòng chống các bệnh tiểu đường và béo
phì.
Đây cũng là nghiên cứu ứng dụng của
các sản phẩm tinh bột biến tính sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm,
dược phẩm và các sản phẩm công nghệ sinh học. Các kết quả nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Starch/Staerke thuộc danh mục SCI (IF=1,677) và tạp chí
Food Chemistry thuộc danh mục SCI (IF=3,901).
Tinh bột là polysacc-harides được
thực vật tạo ra tự nhiên trong các loại quả, củ như ngũ cốc, khoai, sắn,... Đây
là thành phần quan trọng bậc nhất trong chế độ dinh dưỡng của con người và các
sản phẩm thực phẩm. Tinh bột bao gồm: tinh bột không thủy phân (GS), tinh bột
tiêu hóa nhanh (RDS), tinh bột tiêu chuẩn chậm (SDS). Trong đó GS đóng vai trò
như một chất xơ chức năng có lợi cho sức khỏe con người. Trong tự nhiên, tinh bột
tồn tại dưới dạng hạt và có các cấu trúc khác nhau nên chúng chứa hàm lượng RS
khác nhau.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy sự
khác nhau về cấu trúc, tính chất lý-hóa, và tính chất kết tinh của các loại
tinh bột gạo, tinh bột khoai lang và tinh bột khoai mỡ như sau: tinh bột khoai
lang có hàm lượng amylose là 18,7%, kết tinh dạng A, RS là 14,7%, còn khoai mỡ
là 22,3%, kết tinh dạng B, RS là 21,6%. Các chỉ số ở 5 mẫu gạo của Việt Nam gồm
gạo Hàm Trâu (OM576), hàm lượng amylose là 30,6%; gạo 504 trồng tại Cần Thơ (IR
504404), hàm lượng amylose là 24,3%; gạo 64 (IR64), hàm lượng amylose 26.7%; gạo
Hương Lài trồng tại Long An (Jasmine 85), hàm lượng amylose 21,7%; gạo Nếp cái
hoa vàng trồng tại Hải Dương, hàm lượng amylose là 4,7% và có hàm lượng RS cao
hơn rất nhiều so với các loại còn lại.
Bằng phương pháp biến tính tinh bột,
kết quả sau khi sử dụng các acid hữu cơ gồm lactic acid, acetic acid và citric
acid kết hợp với nhiệt độ cho thấy hàm lượng tinh bột không thủy phân tăng cao
hơn nhiều so với tinh bột ban đầu. Tinh bột khoai lang tăng từ 14,7% lên 40,1%
và khi sử dụng acetic acid là 37.5% và citric acid là 42,1%. Hàm lượng tinh bột
không thủy phân của tinh bột khoai mỡ tăng từ 21,6% lên 41,9% lactic acid và
39.0% với acetic acid và 46.6% với citric acid. Khi xử lý citric acid đối với gạo
Hàm Trâu đã tạo ra lượng sản phẩm có hàm lượng RS lên đến 39% so với hàm lượng
RS của tinh bột ban đầu chỉ có 6,3%.
Cấu trúc của tinh bột biến tính
sau khi xử lý với acid cho thấy các phân tử amylose và amylopectin trong hạt
tinh bột đã bị cắt ngắn và mức độ trùng hợp của các phân tử trong tinh bột
khoai lang từ 1059 phân tử glucose giảm xuống còn 49-370 phân tử glucose, ở
tinh bột khoai mỡ từ 627 phân tử glucose giảm xuống còn 30-234 phân tử glucose.
Trong khi đó, tinh bột gạo có hàm lượng amylose thấp giảm từ 1110 phân tử
glucose xuống còn 170-770 phân tử glucose tùy thuộc vào loại acid đã sử dụng.
Như vậy, những tinh bột có trọng lượng phân tử thấp sẽ tạo ra hàm lượng RS cao
hơn khi xử lý nhiệt. Cơ chế tạo thành loại tinh bột RS là do các phân tử tinh bột
có mạch ngắn dễ dàng kết hợp với nhau sau khi xử lý nhiệt bằng liên kết hydro tạo
mạch xoắn tạo ra không gian để ngăn cản các enzym kết hợp vào để thủy phân
chúng. Tinh bột khoai lang và tinh bột gạo có cấu trúc dạng A vẫn giữ nguyên
sau khi biến tính, tinh bột khoai mỡ có cấu trúc dạng B có xu hướng thành cấu
trúc kết tinh dạng A sau khi biến tính.
Chỉ số GI của tinh bột biến tính
có hàm lượng RS cao sẽ tạo ra lượng đường huyết máu ở chuột sau khi ăn thấp hơn
các loại tinh bột khác. Tinh bột Nếp cái hoa vàng có chỉ số GI thấp nhất
(=68,33±0,04), tinh bột Hương Lai là 100 ±0,02, tinh bột gạo 64 là 94,59±0,01,
gạo Hàm Trâu là 93,17±0,02, gạo 504 là 92,85±0,07. Cả 5 mẫu tinh bột trước khi
xử lý đều có GI>70, sau khi xử lý chỉ số này giảm đáng kể. Đối với phương
pháp ẩm nhiệt, loại gạo sau xử lý cho kết quả tốt nhất là tinh bột gạo 64, chỉ
số GI từ 94,59 xuống 21,22, sau đó lần lượt là gạo Hàm Trâu, gạo Hương Lài,
tinh bột gạo 504, tinh bột nếp cái hoa vàng, chỉ số sau xử lý bằng phương pháp ẩm
nhiệt còn trong khoảng 21,2 - 49,7.
Các kết quả từ nghiên cứu đã cho
thấy sau khi biến tính các loại tinh bột đã giảm đáng kể chỉ số đường huyết. Điều
này không những là tiền đề để sản xuất loại tinh bột không thủy phân và rất
quan trọng trong công nghiệp sản xuất tinh bột không thủy phân dùng làm thực phẩm
chức năng để hỗ trợ giảm lượng đường sau khi tiêu hóa sử dụng cho các bệnh nhân
tiểu đường và béo phì, mà còn góp phần tạo ra được các loại tinh bột có chỉ số
GI trung bình và thấp và các sản phẩm thực phẩm chức năng dùng phòng chống các
bệnh mãn tính cho con người và dùng trực tiếp cho các bệnh nhân mắc bệnh tiểu
đường và béo phì.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét